Trong bài viết trước, Sodu.asia đã giúp bạn tìm hiểu sơ bộ về AI Marketing, một dự án đầu tư đang nhận được nhiều sự quan tâm của cộng đồng trong thời gian gần đây. Trong bài viết phần 2 này, Sodu.asia sẽ đi sâu phân tích để làm rõ những nghi vấn cho rằng AI Marketing đa cấp, lừa đảo nhằm giúp các nhà đầu tư có hiểu biết chính xác nhất trước khi đưa ra quyết định bỏ tiền vào dự án này.
Mô hình kinh doanh của AI Marketing
Như đã đề cập trong phần 1, AI Marketing tự giới thiệu mình là sản phẩm công nghệ sử dụng trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence – AI) trong lĩnh vực tiếp thị số (digital marketing). Theo đó, dự án này hỗ trợ thúc đẩy doanh số bán hàng cho các doanh nghiệp đối tác thông qua theo dõi các xu hướng của người dùng trên các mạng xã hội và công cụ tìm kiếm để dự đoán nhu cầu trong tương lai, từ đó lựa chọn các sản phẩm phù hợp từ các đối tác để khởi tạo các chiến dịch quảng cáo cho các sản phẩm này trên các nền tảng như Facebook, Instagram, Google, YouTube, Yandex. Các hoạt động này được thực hiện bởi công nghệ trí tuệ nhân tạo có tên MarketBot, nhờ đó AI Marketing thu được một khoản hoa hồng dựa trên doanh số tạo ra cho các đối tác này.
AI Marketing tạo cơ hội cho những người quan tâm đến dự án tham gia đầu tư tài trợ chi phí của các chiến dịch quảng cáo thực hiện bởi MarketBot để được AI Marketing chia sẻ lại hoa hồng dựa trên doanh số tạo ra nhờ các chiến dịch đó. Theo AI Marketing, nhà đầu tư có thể kiếm lời 25-35%/tháng bằng hình thức này.
Subscribe kênh YouTube của Sodu để nhận phân tích các dự án đầu tư: https://bit.ly/2H6ubT7
Tuy nhiên, không rõ vô tình hay cố ý, mà cách thức AI Marketing giới thiệu với những nhà đầu tư quan tâm đang có sự nhập nhằng, không rõ ràng về khái niệm liên quan tới mô hình kinh doanh của dự án này. Cụ thể, trên hầu hết các kênh truyền thông của mình, AI Marketing đang sử dụng thuật ngữ “hoàn tiền” để chỉ số tiền chia sẻ lại cho các nhà đầu tư tham gia tài trợ ngân sách quảng cáo. Trong khi đó, về mặt bản chất số tiền này là AI Marketing đang chia sẻ doanh thu với nhà đầu tư, còn “hoàn tiền” là thuật ngữ được sử dụng để chỉ việc một doanh nghiệp hoặc một nền tảng khuyến mãi thực hiện hoàn trả một phần hoặc toàn bộ giá trị đơn hàng cho người mua. Chẳng hạn, khi đăng ký thẻ tín dụng hoàn tiền VPBank Cashback hoặc VPBank Lady, chủ thẻ sẽ được ngân hàng này hoàn số tiền lên tới 6% tổng chi tiêu thực hiện thanh toán bằng thẻ vào cuối mỗi kỳ sao kê. Còn trong trường hợp của AI Marketing, nhà đầu tư tài trợ ngân sách của các chiến dịch quảng cáo không hề thực hiện giao dịch mua hàng nào nên không thể gọi là “hoàn tiền“.

Việc nhập nhằng giữa mô hình “chia sẻ doanh thu” và “hoàn tiền” đối với nhà đầu tư không chỉ đặt ra câu hỏi về hiểu biết của những người vận hành AI Marketing, mà còn dẫn đến một số nghi vấn liên quan đến tính khả thi về mặt kinh doanh của nền tảng này. Theo mô tả của AI Marketing, đối với một giao dịch có giá trị 100$ được tạo ra từ chiến dịch quảng cáo của MarketBot, một “nền tảng hoàn tiền” sẽ nhận được 11$, từ đó AI Marketing nhận được chia sẻ 10$, và nhà đầu tư nhận 5.5$. Có thể thấy rằng cơ cấu đang được mô tả bởi AI Marketing hoàn toàn thiếu phù hợp với thực tế, bởi đang bỏ qua hoàn tiền cho người mua. Thông thường trên thực tế, người mua hàng sẽ nhận được khoản hoàn tiền chi trả nền tảng hoàn tiền, có thể là 10% (tương đương 10$) hoặc thậm chí nhiều hơn, còn nền tảng hoàn tiền sẽ kiếm được một số tiền tương đương một tỉ lệ xác định so với giá trị giao dịch của người mua, nhưng thường thấp hơn giá trị hoàn cho khách hàng, có thể vào khoảng 5% (tương đương 5$) để đảm bảo có ngân sách duy trì hoạt động kinh doanh. Tổng số tiền hoàn cho người mua và doanh thu của nền tảng hoàn tiền được dựa trên thỏa thuận của nền tảng hoàn tiền với doanh nghiệp.

Như vậy, tỉ lệ “hoàn tiền” theo định nghĩa của AI Marketing dường như phi thực tế, bởi chúng khó có khả năng ở mức cao như dự án này mô tả. Thậm chí, ngay cả khi bỏ qua “nền tảng hoàn tiền” trung gian, và cho rằng AI Marketing hoạt động như một performance agency, chuyên chạy quảng cáo để nhận hoa hồng từ doanh nghiệp, khả năng dự án này có thể đem lại cho các nhà đầu tư mức lợi nhuận 25%-35% mỗi tháng cho nhà đầu tư như cam kết là một điều khó xảy ra.
Đó là bởi khi xem xét kĩ hơn, khả năng sinh lời của AI Marketing phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Đầu tiên, cần xem xét yếu tố nguồn thu từ các doanh nghiệp đối tác. Trên thực tế, AI Marketing chỉ có thể tạo ra số doanh thu đủ để trang trải các chi phí hoạt động và trả lãi cho các nhà đầu tư khi nguồn thu này đủ lớn, và nguồn thu này sẽ chỉ đủ lớn khi AI Marketing có thể tạo ra số lượng đơn hàng rất cao, và có thể thỏa thuận tỉ lệ hoa hồng trên mỗi đơn hàng đủ cao với các doanh nghiệp đối tác.

Tuy nhiên, khi nhìn vào cơ cấu hoa hồng hiện tại của các đối tác doanh nghiệp của AI Marketing, có thể thấy tỉ lệ hoa hồng này hoàn toàn không cao, phần lớn dưới 10%. Dù vẫn có đối tác có tỉ lệ hoa hồng cao lên tới 50%, tuy nhiên số lượng các đối tác này không nhiều, đồng thời đa phần đều hoạt động trong lĩnh vực ngách, với quy mô tập khách hàng tiềm năng nhỏ và khó tiếp cận. Do đó, khả năng tạo ra doanh thu của AI Marketing từ mô hình kinh doanh này vẫn là câu hỏi lớn.
Tiếp theo, cần xem xét yếu tố chi phí của AI Marketing. Theo mô hình kinh doanh của AI Marketing, để tạo ra doanh thu từ việc thúc đẩy bán hàng cho các đối tác, dự án này sẽ cần khởi tạo các chiến dịch quảng cáo cho các sản phẩm này trên các nền tảng như Facebook, Instagram, Google, YouTube, Yandex. Như vậy, có thể nhận ra rằng chi phí quảng cáo trên các nền tảng này chính là chi phí lớn nhất của dự án.
Như vậy, để đem lại mức lợi nhuận đều đặn 25-25% mỗi tháng cho các nhà đầu tư, các chiến dịch quảng cáo của AI Marketing phải cực kỳ hiệu quả và tối ưu chi phí, mà theo mô tả của dự án này là sẽ vào khoảng 25% số tiền hoa hồng (hay vào khoảng 2.5% giá trị giao dịch của người mua hàng). Theo AI Marketing, dự án này sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) có tên MarketBot để làm điều đó.

Tuy nhiên, nếu là người có kinh nghiệm trong lĩnh vực tiếp thị số (digital marketing), đặc biệt là nếu đã từng trực tiếp triển khai các chiến dịch quảng cáo trên các nền tảng đã nêu, bạn sẽ biết rằng điều này gần như bất khả thi. Bởi mỗi sản phẩm dịch vụ, ở mỗi thời điểm, lại có một tập khách hàng mục tiêu khác nhau, đòi hỏi những thông điệp và kênh tiếp cận khác nhau, khiến cho hiệu quả các chiến dịch quảng cáo có thể biến động rất lớn. Bên cạnh đó, khả năng tiếp thị bám đuổi (remarketing) – tức phân phối quảng cáo hướng đến những khách hàng đã có những hành động tương tác, chẳng hạn ghé thăm trang web hay đã bỏ hàng vào giỏ trên trang thương mại điện tử nhưng chưa thực hiện thanh toán – của AI Marketing lại hạn chế, khi mà nền tảng này không sở hữu một kênh tiếp xúc người dùng nào để theo dõi được dữ liệu hành vi của họ. Cuối cùng, hiệu quả của các chiến dịch quảng cáo cũng phụ thuộc một phần rất lớn vào chính sách và thuật toán của các nền tảng Facebook, Instagram, Google, YouTube, Yandex – vốn khó đoán định và lại được cập nhật khá thường xuyên. Có không ít trường hợp doanh nghiệp đã xác định được các thức triển khai chiến dịch quảng cáo hiệu quả, mang lại nhiều doanh thu, nhưng Facebook bỗng đổi chính sách khiến cho hiệu quả ngay lập tức sụt giảm nặng nề, hoặc thậm chí bị khóa tài khoản, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh. Thế nhưng AI Marketing lại tuyên bố rằng dự án này có khả năng triển khai các chiến dịch marketing cho mọi loại sản phẩm dịch vụ mà hiệu quả luôn ổn định – một điều cực kì khó tin. Nghi vấn này càng được củng cố khi các số liệu báo cáo của AI Marketing cho nhà đầu tư thông qua dashboard chỉ hiển thị số tiền lợi nhuận kiếm được chứ không cho thấy hiệu quả chi tiết của từng chiến dịch mà MarketBot triển khai.
Cũng bởi những nguyên nhân trên mà các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình này phần lớn đều chưa có lãi, thậm chí lỗ lớn và đang cần gọi vốn để duy trì và mở rộng. Chẳng hạn, Fave, một nền tảng hoàn tiền và khách hàng thân thiết hoạt động tại thị trường Đông Nam Á, từng mua lại mảng kinh doanh của Groupon tại khu vực này, đã thu hút tổng cộng khoảng 46,9 triệu đô vốn đầu tư mạo hiểm từ các quỹ đầu tư gồm InnoVen Capital và Pine Labs, hai quỹ được hậu thuẫn bởi các tên tuổi lớn như PayPal, Mastercard, Sequoia Capital hay Temasek – quỹ đầu tư của chính phủ Singapore. Dù vậy, Fave vẫn lỗ số tiền gần 10 triệu đô trong năm 2019. Từ đó, việc AI Marketing không chỉ hoạt động ổn định mà còn cam kết mức lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư là một điểm cần xem xét kỹ.
Cơ cấu trả thưởng theo mô hình đa cấp của AI Marketing và INB Network
Thoạt nhìn, AI Marketing không phải là một dự án hoạt động theo mô hình đa cấp, khi mà dự án này cho biết cơ chế kiếm tiền thông qua giới thiệu người mới chỉ áp dụng đối với người được giới thiệu trực tiếp (F1), chứ không áp dụng trên những người được giới thiệu gián tiếp, tức những người mà người được bạn giới thiệu tiếp tục giới thiệu vào (hay F2, F3, F4).
Tuy nhiên, khi tìm hiểu kĩ hơn, không khó để nhận thấy rằng đây vẫn là một dự án đa cấp, thông qua mối quan hệ với tập đoàn mẹ INB Network. Cụ thể, AI Marketing cho phép người tham gia đăng ký bằng tài khoản INB Network. Dựa trên số tiền của người được giới thiệu đầu tư vào AI Marketing, INB Network sẽ trả hoa hồng cho nhà đầu tư, với tỉ lệ lên tới 15%, và không dưới hạn số tuyến dưới.

Việc hoạt động theo mô hình đa cấp, nhưng lại cố gắng che giấu sự thật đó thông qua mối quan hệ với INB Network càng cho thấy sự đáng ngờ của AI Marketing. Cùng với những câu hỏi xoay quanh mô kinh doanh chưa có lời giải, hoàn toàn có cơ sở khi đặt ra nghi vấn rằng đây chỉ là một dự án lừa đảo theo kiểu Ponzi, chỉ cố gắng thu hút càng nhiều vốn càng tốn bằng cách lấy tiền của người sau trả lãi cho người trước, để đến một thời điểm nhất định thì sẽ dừng hoạt động, còn những kẻ đứng đầu sẽ cao chạy xa bay với số tiền thu được.
Dòng tiền của AI Marketing
Như đã đề cập, AI Marketing sẽ sử dụng tiền của các nhà đầu tư để tài trợ cho các chiến dịch quảng cáo và trả lại mức lợi nhuận ở mức 25-35% mỗi tháng. Đồng thời, do dự án này cho phép người tham gia kiếm lời song song từ chương trình giới thiệu người mới của AI Marketing và tập đoàn mẹ INB Network, mức hoa hồng cao nhất mà một người giới thiệu có thể nhận được lên tới 20% (bao gồm 5% hoa hồng chi trả bởi AI Marketing và 15% hoa hồng chi trả bởi INB Network). Đó là chưa tính tới tiền thưởng doanh số cho những người giới thiệu.
Từ phương diện tài chính, không khó để nhận thấy rằng việc thu hút tiền từ các nhà đầu tư cá nhân và trả hoa hồng theo đa cấp cho người giới thiệu của AI Marketing là một cách làm không hề hợp lý. Nếu thực sự có khả năng triển khai các chiến dịch quảng cáo hiệu quả để đem lại doanh thu và lợi nhuận như cam kết, dự án này có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức lớn như ngân hàng hay quỹ đầu tư. Chẳng hạn, nếu như vay ngân hàng, tại Hong Kong, nơi đăng ký kinh doanh của công ty chủ quản Wexford Alliance Limited, lãi suất hàng năm chỉ vào khoảng 0.86% mỗi năm. Điều này đồng nghĩa với chi phí vốn thấp hơn rất nhiều so với mức hoa hồng 20% mà dự án đang phải chi trả cho những người giới thiệu.
Hơn thế nữa, việc sử dụng nguồn vốn từ các tổ chức lớn như ngân hàng hay quỹ đầu tư còn giảm áp lực đối với dòng tiền của AI Marketing. Chẳng hạn, nếu vay ngân hàng, dự án này chỉ cần trả lãi hằng năm đúng hạn. Còn đối với việc thu hút nhà đầu tư thông qua mô hình đa cấp, dự án này sẽ phải trả hoa hồng cho người giới thiệu gần như ngay lập tức.
Ngoài ra, cũng cần phải nhắc tới thực tế là bên cạnh hoa hồng trả cho những người giới thiệu, làm việc với một số lượng lớn các nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ cũng sẽ khiến cho AI Marketing tốn rất nhiều chi phí và nỗ lực so với khi làm việc với các tổ chức lớn như ngân hàng hay quỹ đầu tư.
Các yếu tố pháp lý của AI Marketing
Hiện tại, ngoài đăng ký kinh doanh của công ty chủ quản Wexford Alliance Limited, không thêm bất kỳ nhiều thông tin về các doanh nghiệp liên quan đến AI Marketing. Cụ thể, các nỗ lực tìm hiểu về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp này không cho thấy một kết quả nào: không có hình ảnh văn phòng, không xác định được đội ngũ lãnh đạo của doanh nghiệp này. Điều tương tự cũng xảy ra với INB Network khi ngoài những thông tin về chương trình giới thiệu đa cấp và mức hoa hồng hấp dẫn, không có thông tin gì về doanh nghiệp này.
Điều này đặt ra câu hỏi, liệu các công ty liên quan tới AI Marketing và INB Network có phải là các doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh, hay chỉ là cái vỏ bọc được dựng lên để thu hút tiền từ nhà đầu tư. Đồng thời, liệu các nhà đầu tư có biết tiền của mình đang chạy vào túi của ai, họ có đủ năng lực và uy tín để thực hiện các cam kết hay không, khi mà gần như không có một chút thông tin gì về đội ngũ lãnh đạo của các doanh nghiệp này.
Vai trò của đội ngũ mô giới AI Marketing
Sodu.asia đã từng nhận định rằng, một trong những cách đơn giản nhất để đánh giá một dự án đầu tư là kiểm chứng uy tín của những người giời thiệu nó. AI Marketing cũng không phải là một ngoại lệ đối với nhận định này.
Không quá khó để nhận ra rằng những cá nhân, tổ chức đang quảng bá mạnh mẽ nhất cho AI Marketing cũng đã hoặc đang quảng bá cho các dự án đa cấp, lừa đảo khác, bao gồm IBG, Pi Network, Wefinex, Antares Trade,…


Rõ ràng, đây là những cá nhân và hội nhóm chuyên môi giới các dự án đầu tư để kiếm tiền hoa hồng. Họ không có kiến thức cơ bản về các lĩnh vực kinh doanh của các dự án đó, không có khả năng xác định tính khả thi của dự án hoặc biết các dự án này là đa cấp lừa đảo nhưng vẫn nhắm mắt làm ngơ, vì họ chỉ quan tâm đến hoa hồng khi xây dựng hệ thống, thay vì quyền lợi của những người tham gia.
Kết luận
Với mô hình kinh doanh không rõ ràng, cùng cơ chế thu hút nhà đầu tư theo mô hình đa cấp, dòng tiền đặt ra nhiều dấu hỏi, các yếu tố pháp lý thiếu minh bạch và đặc biệt là sự tham gia quảng bá tích cực của các cá nhân, tổ chức từng quảng bá nhiều dự án lừa đảo khác, có thể kết luận một cách chắc chắn rằng AI Marketing là một dự án đa cấp, lừa đảo theo kiểu Ponzi, lấy tiền người sau trả cho người trước. Thời điểm dự án này sập sẽ không còn quá xa. Bạn không nên tham gia dự án AI Marketing dù có được nghe những lời lẽ hứa hẹn hấp dẫn đến đâu, đồng thời chia sẻ thông tin này cho bạn bè và người thân về nguy cơ lừa đảo của nó.
Pingback: Antares là gì? Antares có lừa đảo? Tất tần tật từ A-Z về Antares Trade (phần 1)